THÀNH TỲ XÁ LI (VAISHALI) - NỀN CỘNG HÒA ĐẦU TIÊN TRÊN THẾ GIỚI

Kinh Thành Tỳ Xá Li (Vaishali) xưa 📍(Vào đây để đến vị trí kinh thành Tỳ Xá Li (vaishali) xưa)

Tên gọi Vesali phát xuất từ tên vị vua Vishal thuộc triều đại Mahabharata. Nó là kinh đô của vương quốc Licchavi, được xem là nhà nước cộng hòa đầu tiên trên thế giới. Vào thời Đức Phật, Vesali là một thành phố lớn, dân chúng đông đúc, rất thịnh vượng và phát triển. Kinh thành như được mô tả là gồm có ba vòng, được bố trí tháp canh tại những lối vào rất kiên cố. Đức Phật đã có hai mùa an cư tại Vesali. Lần đầu Ngài trú tại Mahavana Kutagarshala, năm thứ 5 sau khi Ngài chứng đắc đạo quả. Trong lần này, bà Mahaprajapati Gautami cùng với năm trăm nữ nhân Sakya từ Ca-tỳ-la-vệ đã tìm đến xin Đức Phật cho họ được xuất gia. Và sau lời thưa thỉnh của Tôn giả Ananda, đến lần thứ ba, Đức Phật đã đồng ý cho họ xuất gia kèm theo những điều kiện được chế định, mục đích ngăn chặn những vấn đề không tốt sẽ xảy đến với họ và Tăng đoàn về sau. Như vậy tại Vesali này, Giáo đoàn Ni lần đầu tiên được thiết lập, và cũng có thể nói rằng đây là cộng đồng nữ tu đầu tiên trên thế giới.
Lần du hóa thứ hai của Đức Phật đến Vesali là vào năm thứ 46 sau khi Ngài giác ngộ. Trong lần này, Đức Phật an trú tại Belugama, và cũng trong lần này Ngài thông báo sẽ nhập Niết-bàn sau ba tháng tại Kusinagar. .

Đức Phật có lẽ viếng thăm Vesali nhiều lần bên cạnh hai lần an cư mùa mưa như các luận giải đã đề cập, vì căn cứ vào Luật tạng thì có nhiều giới luật đã được Đức Phật chế định tại Vesali trong những bối cảnh khác nhau. Trong các giới luật được chế định tại đây, có điều luật quy định ba y cho người xuất gia. Đức Phật cũng thuyết giảng nhiều bài kinh tại Vesali, trong đó có thể nhắc đến những kinh quan trọng như Mahasaccaka (Đại kinh Saccaka, số 36, Trung bộ kinh), Culasaccaka (Tiểu kinh Saccaka, số 35, Trung bộ kinh); Sunakkhata (Tiểu kinh Sư tử hống, số 105, Trung bộ kinh); Ratana (Tương ưng bộ)…. Và có một bài kinh rất quen thuộc ở trong Đại phẩm (Tương ưng kinh) được Đức Phật thuyết tại Vesali, nói về sự bất tịnh của thân thể.
Theo Kinh điển và ghi chép Trung Hoa (Pháp Hiển, Huyền Trang) mô tả Vaishali có tới 7.000 ngôi làng, 7.000 cổng thành, 7.000 bể nước – phản ánh sự phồn vinh cực thịnh. Vaishali là trung tâm thương mại, chính trị và văn hóa lớn ở Bắc Ấn, nổi tiếng với kỹ nghệ, thương nhân giàu có, kỹ nữ lừng danh Ambapali, và đời sống chính trị dân chủ đặc biệt. Khác với hầu hết các vương quốc Ấn Độ thời đó (theo chế độ quân chủ), Vajji (Bạt-kỳ) theo mô hình “gana-sangha” – tức liên bang cộng hòa bộ lạc.
• Hội đồng nghị sự (Vajji sangha) gồm 7.707 thành viên, mỗi người đại diện cho một gia tộc quý tộc.
• Các quyết định được đưa ra bằng biểu quyết tập thể, có ghi rõ “thảo luận công khai, quyết định tập thể, đoàn kết khi hành động”.
• Các ghi chép của Đức Phật và cả trong kinh điển Jain giáo đều công nhận đây là nền cộng hòa dân chủ sơ khai, trước cả Hy Lạp và La Mã tới 200 năm.
Trong Kinh Đại Bát Niết-bàn (Mahāparinibbāna Sutta, DN 16), Đức Phật đã nói với A-nan về “7 pháp bất thối của người Vajji”, mà chừng nào họ còn giữ được, đất nước sẽ bình yên, phồn thịnh, tránh họa xâm lăng:
1. Thường tụ họp đông đảo và bàn luận trong tinh thần đoàn kết.
2. Thực thi luật pháp công bằng, dân chủ.
3. Tôn trọng truyền thống, không thay đổi vội vã.
4. Tôn kính trưởng lão, nghe lời khuyên của bậc trí.
5. Giữ gìn phẩm hạnh phụ nữ, không cưỡng đoạt.
6. Tôn trọng các thánh tích, chùa tháp, cúng dường bậc Thánh.
7. Tôn kính các bậc Thánh hiền, các bậc giác ngộ, không để bị lôi kéo vào tà đạo.
Với nền dân trí và sự tiến bộ của mình, cộng với lần Đức Phật đã về cứu giúp Thành Tỳ Xá Li khi hạn hán, dịch hạch, có thể dễ dàng cho ta hiểu vì sao, Tỳ Xá Li là kinh thành yêu kính Đức Phật nhất
✅Hiện nay, di tích kinh thành cũ còn lại các điểm chính sau đây:
(📷 vào đây để xem hồ nước trung tâm xưa và Tháp Hòa Bình do người Nhật xây dựng)
(📷 vào đây để xem THáp hòa bình)

Sau sự kiện phân chia xá lợi tại Câu Thi Na, dòng họ Licchavi của Tỳ Xá Li đã an vị Xá Lợi Phật tại Tháp xá lợi ngay tại trung tâm kinh thành xưa

(📷 vào đây để xem Tháp Xá Lợi cổ được khai quât năm 1958 nhìn từ hướng đông)
(📷 vào đây để xem Tháp Xá Lợi cũ từ hướng tây)

Sau nhiều năm lưu lạc, ngày 29/7/2025 - Xá lợi Phật này lại được mang về, an Trí tại quần thể tháp rộng lớn mới, ngay sát tháp Xá Lợi cũ

(🔎 vào đây để xem chi tiết về việc khánh thành Tháp Xá Lợi mới ngày 29/7/25)
(📷 vào đây để xem Tháp Chuông Hòa Bình giữa tháp Xá lợi cũ và mới)
(📷 vào đây để xem quần thế Tháp Xá lợi mới)
✅ Cũng tại Vesali, Liên Hoa Sắc (Amrapali nghĩa là Amra = xoài, Pali = láng giềng/người), nên được gọi là “người con của xoài”. Bà có nhan sắc tuyệt thế, được chọn làm Nagarvadhu (quốc kỹ nữ), tức người phụ nữ đại diện sắc đẹp cho toàn thành Vesali. Do tài năng, sắc đẹp, bà trở nên cực kỳ giàu có, sở hữu khu vườn xoài Ambavana, nơi thường tổ chức các buổi yến tiệc, ca múa. Chính bà đã từ chối 1 cuộc yến tiệc đã được đặt trước để đón tiếp Đức Phật. Sau khi nghe Pháp, bà đã quy y theo Đức Phật; cúng dường cho Đức Phật khu vườn xoài của mình để làm nơi cư trú cho Tăng chúng sau này trở thành Kutagar shala. Bà có một người con trai cùng với vua Ba Tư Nặc tên là Vimala Kundaka. Vimala xuất gia theo Đức Phật và trở thành một vị Trưởng lão xuất chúng. Còn Liên Hoa Sắc, với nỗ lực tinh tấn, sau một thời gian gia nhập vào Giáo đoàn Ni, cũng đã chứng được Thánh quả. NGày nay, khu vườn xoài và Tịnh xá Kutagar Shala xưa thành khu tưởng niệm chính về ngài Anan và được xem là chốn tổ Ni đoàn - nơi mà sau 3 lần thỉnh cầu của Ngài Anan, Đức Phật đồng ý cho thành lập giáo hội Tì Kheo Ni kèm với Bát Kỉnh Pháp

📍(Vào đây để đến vị trí Tịnh xá Kutagar Shala)
(📷 vào đây để xem Toàn cảnh khu tưởng niệm với Tháp Anan và nền Ni xá Kutagar Shala hình chữ vạn)
(📷 vào đây để xem Toàn cảnh khu tưởng niệm từ hướng nam)
(📷 vào đây để xem Toàn cảnh khu tưởng niệm từ hướng Tây))
(📷 vào đây để xem Toàn cảnh khu tưởng niệm từ hướng tây bắc)
(📷 vào đây để xem nền Ni Xá Kutagar Shala hình chữ vạn)
(📷 vào đây để xem trụ đá vu a Dục dựng chỉ duy nhất 1 con sư tử nhìn về phía Câu Thi Na nói về việc kiên quyết không Tăng đoàn đi theo về Câu Thi Na của Đức Phật)
✅Sau bài pháp cuối cùng, Đức Phật cùng Ngài Anan đi về phía Câu Thi Na. Tăng chúng từ khắp nơi ùa về Tỳ Xá Li với mong muốn được đảnh lễ Đức Thế Tôn lần cuối...Tăng đoàn đuổi theo ngài, và đã đuổi kịp Đức Phật tại Kesarya - Nơi đây, lần hội Pháp cuối cùng mà sau này được kiết tập thành kinh Di Giáo đã diễn ra. Kết thúc buổi hội giáo, Dức Thế Tôn tặng lại cho Thành Tỳ Xá Li cái Bát của mình, như 1 cử chỉ truyền trao chánh Pháp
📍(Vào đây để đến vị trí Tháp Kesarya)
(📷 vào đây để xem Toàn cảnh khu đại tháp Phật giáo lớn nhất động Nam Á - Kesarya)
(📷 vào đây để xem đỉnh đại tháp Kesarya)
(📷 vào đây để xem lối kinh hành quanh đại tháp Kesarya)
(📷 vào đây để xem lối kinh hành quanh đại tháp Kesarya)
✅Một điều đáng nhớ nữa là Kalama Sutta được Đức Phật thuyết tại thị trấn Kesaputta, thủ đô của bộ tộc Kālāma gần Đại tháp Kesariya). Lúc đó, người dân Kesaputta (Kālāma) vốn hoang mang vì nhiều đạo sĩ, triết gia đến thuyết giảng các giáo lý khác nhau nên họ họ thỉnh Phật phân giải, họ hỏi Đức Phật: “Ai cũng nói mình đúng, chúng con hoang mang, không biết nghe ai?”. Đức Phật dạy:
• Đừng vội tin vì nghe truyền thống.
• Đừng vội tin vì kinh điển, lời truyền miệng.
• Đừng vội tin vì lý luận, suy diễn.
• Đừng vội tin vì giáo chủ nói.
• Đừng vội tin chỉ vì điều đó hợp với suy nghĩ của mình.
Ngài dạy:
• Khi tự mình thấy: pháp nào đưa đến tham, sân, si → pháp đó bất thiện, nên từ bỏ.
• Khi tự mình thấy: pháp nào đưa đến từ bi, hỷ xả, trí tuệ → pháp đó thiện, nên thực hành.
Người thực hành Từ, Bi, Hỷ, Xả, giữ tâm thanh tịnh thì:
1. Nếu có đời sau → được sinh thiên.
2. Nếu không có đời sau → vẫn sống hạnh phúc, an lạc ngay hiện tại.
3. Nếu ác nghiệp có quả → tâm thiện bảo vệ mình.
4. Nếu ác nghiệp không quả → vẫn sống trong an vui, không hối tiếc.
👉 Đây chính là tinh thần “tứ an ủi” (bốn sự an ủi) nổi tiếng trong Phật giáo.
Kinh Kalama được xem là “Tuyên ngôn nhân quyền tư tưởng” trong Phật giáo, khuyên con người tự do tư duy, không tin mù quáng, nhưng cũng không cực đoan hoài nghi – mà hãy dùng trí tuệ, kinh nghiệm, quán sát nhân quả thực tế..
Ngày nay, bài Kinh Kalama được sự dụng như 1 min chứng của tính duy vật biện chứng và thông thái của Phật giáo - nó còn được xem là 1 tuyên ngôn của tự do và hiệu quả của tư duy phi ràng buộc, còn được gọi là bộ kinh của sự thực hành thông thái
✅ Để chính thức và dứt khoát chia tay Tăng đoàn, Tăng đoàn hãy trở về thực hành tu tập, đừng đi theo Ngài...một vài truyền thống còn nói rằng Đức thế Tôn dùng tay vạch ra 1 con sông, con sông đó vẫn còn đến ngày nay - sông Galdak mà phía đầu nguồn, phần trên đất Nepal còn được gọi là con sông Anoma - nơi Thái tử cắt tóc xuất gia
(📷 vào đây để xem sông galdak buổi chia ly)

📘 Đọc toàn văn cuốn sách: Đức Phật Lịch Sử (bản PDF)

📥 Tải về bản PDF

🙏 Xin cảm ơn quý vị — quay về trang chủ: Quay về trang chủ