22 năm chuyên trách hành Hương Phật tích Ấn Độ, Nepal

Đỉnh Everest nh́n từ phía bắc —Nepal

TÂY TẠNG HUYỀN BÍ

 

Với diện tích 1.200.000 km2 và dân số 2.700.000 người, Tây Tạng là vùng đất thử thách sức lực của con người bởi độ cao và môi trường khô khan. Tây Tạng nổi tiếng là một địa danh đầy bí ẩn đối với du khách từ xưa đến nay. Do địa h́nh khá phức tạp nên trong một thời gian khá dài, Tây Tạng hầu như bị ngăn cách với thế giới bên ngoài. Cao nguyên Tây Tạng có diện tích khoảng 1.200.000 km2, nằm ở độ cao gần 5000m, là một vùng đất rộng lớn và cao nhất Trung Hoa. Được mệnh danh là "mái nhà của thế giới" với những rạng núi cao nhất hành tinh như dăy Hymalaya với đỉnh Everest, cao nguyên Tây tạng được h́nh thành do quá tŕnh thành kiến tạo và va chạm của các mảnh địa chất trên bề mặt vỏ quả đất từ hàng triệu năm trước mà thành. V́ vậy, cho đến nay người ta vẫn c̣n thấy nhiều dấu vết của các loài động vật biển hóa thạch cùng nhiều hồ nước mặn trên khắp vùng đất thảo nguyên mênh mông. Tây Tạng, phiên âm từ tiếng Hoa "Xizang", được biết đến như một vương quốc huyền bí của Phật giáo và là một cao nguyên cao nhất thế giới thuộc dăy Hy Mă Lạp Sơn. Ngoài ra, Tây Tạng c̣n được biết đến với các tên gọi “xứ sở hạnh phúc đă mất” (Lost Shangri La), “đất nước của núi tuyết” hay “mái nhà của thế giới”. Tây Tạng c̣n được xem là “huyền bí” v́ không hiểu hết được sự thâm sâu trong hành vi và suy nghĩ của người dân bản địa.

 

Phật giáo Tây Tạng cũng được gọi là Lạt-ma giáo do dự tôn sùng mà các tín đồ dành cho các vị Lạt ma, là một hệ phái Phật giáo quan trọng thuộc Phật giáo Đại thừa, được truyền bá nhiều nơi trên dăy Hi-mă-lạp sơn, đặc biệt ở Tây Tạng. Đặc trưng của Phật giáo Tây Tạng là sự trộn lẫn của các giới luật của Thuyết nhất thiết hữu bộ và các phép tu của Kim cương thừa. Các ḍng tu quan trọng của Tây Tạng thường hay có một hệ thống các tu viện, đồng thời cũng bắt nguồn từ các vị Đại thành tựu (sa. mahāsiddha). Về mặt lí thuyết, ngoài A-t́-đạt-ma, Phật giáo Tây Tạng c̣n dựa vào các giáo pháp Đại thừa của Long Thụ (sa. nāgārjuna) và Vô Trước (sa. asaṅga), xem đó là hai lí thuyết căn bản mà đặc biệt là triết lí Trung quán cụ duyên (sa. mādhyamika-prāsaṅgika) được xem trọng hơn hết. Ngoài ra Nhân minh học (hetuvidyā; có thể gọi là logic, lư luận học) cũng được đưa vào để luận giải các vấn đề có tính giáo khoa. Đặc biệt, các phép tu Tantra hay được dùng để biến các kiến thức lư thuyết thành kinh nghiệm bản thân.

Năm chủ đề (sa. pañcavacanagrantha) quan trọng phải được học hỏi, nghiên cứu trong một thiền viện tại Tây Tạng trước khi đạt được danh hiệu Gueshe (tương ưng với Thượng toạ tại Đông Á và Đông Nam Á, hay với bằng cấp Tiến sĩ Phật học của Tây phương) gồm:

1. Bát-nhă-ba-la-mật-đa (sa. prajñāpāramitā)

2. Trung quán (sa. mādhyamika)

3. Nhân minh hoặc Lượng học (sa. pramāṇavāda)

4. A-t́-đạt-ma (sa. abhidharma)

5. Luật (T́-nại-da, sa. vinaya).

Trước khi Phật giáo du nhập vào Tây Tạng th́ Bôn giáo được xem là quốc giáo. Khoảng dưới thời vua Tùng-tán Cương-bố  (620-649) th́ hoàng gia bắt đầu chuyển qua Phật giáo. Năm thế hệ sau vị vua này th́ Phật giáo được tuyên bố chính thức là quốc giáo và với sự xây dựng tu viện Tang-diên (samye) năm 775, các tăng sĩ Tây Tạng bắt đầu thành lập Tăng-già (sa. Sangha).

Phật giáo Tây Tạng được xem là được h́nh thành trong thế kỉ 8 dưới triều vua Ngật-lật-song Đề-tán (755-797), do hai Cao tăng Ấn Độ là Tịch Hộ (sa. śāntaraksita) và Liên Hoa Sinh (sa. padmasambhava) truyền sang. Đợt đầu của việc truyền bá đạo Phật qua Tây Tạng chấm dứt trong thế kỉ 9. Trường phái Ninh-mă được thành lập từ thời gian đó. Mới đầu Phật giáo Tây Tạng cũng có tiếp xúc, tranh luận với Thiền tông Trung Quốc, nhưng sau đó, người ta theo hẳn giáo lí của Trung Quán tông (sa. mādhyamika, bo. dbu ma pa).

Khoảng dưới thời vua Lăng-đạt-ma (glang dar ma གླང་དར་མ་) (838-842), Bôn giáo lại được phục hồi, Phật giáo bị bức hại. Trong thời gian đó, chỉ có phái "áo trắng", là các vị cư sĩ tại gia, được bảo tồn. Ngày nay đại diện c̣n lại của ḍng phái này chính là phái Ninh-mă.

Sau một thời gian bị bức hại, Phật giáo lại phục hưng trong thế kỉ 11, phát sinh hai trường phái Ca-nhĩ-cư (bo.kagyupa བཀའ་བརྒྱུད་པ་) và Tát-ca (sa skya pa ས་སྐྱ་པ་) và đó là thời gian mà rất nhiều kinh sách được dịch ra tiếng Tây Tạng. Với A-đề-sa, đạo Phật lại được truyền bá lần thứ hai sang Tây Tạng. Từ đây, người ta lại quan tâm đến các trường phái, nhất là các phái truyền tâm từ thầy qua tṛ theo dạng "khẩu truyền", và từ đó sinh ra các tu viện lớn của tông Tát-ca (1073), lôi kéo được dịch giả Mă-nhĩ-ba (bo. mar pa མར་པ་) – người sáng lập tông Ca-nhĩ-cư– sang Ấn Độ thu thập kinh sách. Trong Phật giáo Tây Tạng và các tông phái tại đây, các vị đại sư được gọi là Lạt-ma, đóng một vai tṛ rất quan trọng. Một trong các vị quan trọng nhất là Tông-khách-ba (tsong-kha-pa), được mệnh danh là "nhà cải cách", người thiết lập và tổ chức lại toàn bộ các tông phái. Sư cũng là người xây dựng tu viện Gan-den (1409) và thành lập tông Cách-lỗ (bo. gelugpa དགེ་ལུགས་པ་).

Kể từ thế kỉ 14, phái Cách-lỗ thịnh hành, được xem là một trong bốn trường phái lớn của Phật giáo Tây Tạng. Ngày nay, trên thế giới, Phật giáo Tây Tạng được coi trọng, nhiều Lạt-ma Tây tạng đang giáo hóa tại các nước phương Tây. Các tông phái và giáo lí khác như Đoạn giáo (bo. chod གཅོད་), tuy có một hệ thống kinh sách mạch lạc, nhưng lại không xây dựng tu viện nên cuối cùng ḥa vào các ḍng khác.

Text Box: Xem Tiếp Trang sau

DU LCH VIT N

58/4 C12 Cng Ḥa, P.13,

Tân B́nh, HCM –Vit Nam

Đin thoi: + 84 862 862 888; Di Động: +84 914 95 96 97; Email: hanhhuong@hanhhuong.net

22 năm chuyên trách hành hương Phật tích Ấn Độ, Nepal

Text Box: Trở Về Trang Chủ

Hồ “Mẹ” Yamdrock

Hồ Turquoise

Trâu Tạng